Chủ Nhật, 22 tháng 3, 2009

Lai suat?

NHNN thông báo số dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất đến ngày 20/3/2009

Theo báo cáo nhanh của các ngân hàng thương mại, dư nợ cho vay hỗ trợ lãi suất đến ngày 20/3/2009 là 151.903 tỷ đồng. So với dư nợ tính đến ngày 13/3/2009, chỉ sau 1 tuần thực hiện, dư nợ cho vay của chương trình này đã tăng 7.591 tỷ đồng (tương đương tăng gần 5,26%); trong đó dư nợ cho vay của nhóm NHTM nhà nước và Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương là 115.659 tỷ đồng, tăng 1.122 tỷ đồng (tăng gần 0,98%); nhóm ngân hàng thương mại cổ phần là 31.731 tỷ đồng, tăng 4.894 tỷ đồng (tăng gần 18,2%); nhóm ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng 100% vốn nước ngoài là 4.513 tỷ đồng, tăng 1.575 tỷ đồng (tăng gần 53,59%).

Vốn kích cầu quay lại ngân hàng

“Dù nỗ lực hết sức chúng tôi mới giải ngân cho vay hỗ trợ lãi suất được 300 tỉ đồng. Không biết các ngân hàng khác làm thế nào mà giải ngân được một lượng tiền lớn nhanh thế” - tổng giám đốc một ngân hàng cổ phần giãi bày. Ông nói hồ sơ đề nghị hỗ trợ lãi suất của doanh nghiệp gửi về khá nhiều, phần lớn xin trả nợ cũ, vay mới.

Cho đến giờ, ngoài Ngân hàng Nhà nước (NHNN), không có cơ quan quản lý nào có thể đánh giá chính xác bao nhiêu phần trăm của 113.708 tỉ đồng hỗ trợ lãi suất đã được giải ngân đến 6-3-2009 thực sự đi vào sản xuất kinh doanh. Đã từ nhiều tháng nay, báo chí và các viện nghiên cứu dự báo không có được con số tuyệt đối tổng dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng.


Thưa Thống đốc, nhiều doanh nghiệpthuộc diện được hỗ trợ lãi suất cũng như như không thuộc diện này đềnghị được “vay mới, trả cũ” mà thực chất là đảo nợ, nhằm bớt gánh nặnglãi cao từ các khoản vay năm ngoái. Quan điểm của Thống đốc về vấn đềnày như thế nào?

Tại Thông tư 02/TT - NHNNhướng dẫn thực hiện Quyết định 131/CP, đã quy định rất rõ: ngân hàngthương mại phải thực hiện việc hỗ trợ lãi suất theo đúng quy định củaThủ tướng Chính phủ và thông tư này; đảm bảo công khai, rõ ràng số tiềnhỗ trợ lãi suất với khách hàng vay; từ chối các yêu cầu hỗ trợ lãi suấtkhông đúng quy định của pháp luật.

Đồng thời, lãnh đạo cácngân hàng thương mại chịu trách nhiệm trước pháp luật đối với cáctrường hợp hỗ trợ lãi suất không đúng quy định; nếu vi phạm, sẽ bị xửlý nghiêm khắc.

Tôi nhắc lại, cho vay doanh nghiệp tại một ngânhàng để trả nợ cho chính ngân hàng đó hoặc trả nợ cho một ngân hàngkhác, được coi là hành vi đảo nợ.

Còn trả nợ trước hạn hoặc đến hạn trả nợ, khách hàng thanh toán nợ cũ, vay nợ mới là chuyện bình thường. Muốnvay lại, phải tuân thủ nghiêm ngặt Quy chế tín dụng 1267 với điều kiệncó phương án sản xuất khả thi.

Vừa rồi, tôi có nghe nói về vấn đề đảonợ, nhưng làm sao có thể đảo nợ nếu không có dự án sản xuất hiệu quả? Luậtpháp nghiêm cấm triệt để hành vi đảo nợ trong bất luận trường hợp nào.Bởi vì, một nền kinh tế chấp nhận cho vay đảo nợ, tức là chấp nhận cáchlàm ăn không mang lại hiệu quả, đồng thời gây thất thoát tài sản, chưakể gây rối ren trong công tác quản lý.

Cục Thống kê Tp.HCM

Trong 3 tháng đầu năm, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã triển khai nhiều biện pháp nhằm kiềm chế lạm phát, chủ động ngăn ngừa suy giảm kinh tế, bằng việc giữ ổn định thị trường tiền tệ, đảm bảo an toàn cho các tổ chức tín dụng, đồng thời có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp và hộ sản xuất khắc phục khó khăn, đảm bảo khả năng thanh khoản của các tổ chức tín dụng ở mức cao, giảm dần lãi suất cho vay, điều hành tỷ giá phù hợp cung cầu thị trường nhằm thúc đẩy xuất khẩu.

Sau khi Ngân hàng Nhà nước quyết định giảm lãi suất cơ bản xuống còn 7%/năm kể từ ngày 1/2, lãi suất trên thị trường tiền tệ có xu hướng giảm so đầu năm; tuy nhiên giữa tháng 2 đến nay một số ngân hàng thương mại đã điều chỉnh tăng lãi suất huy động từ 0,3-1%/năm (lãi suất huy động phổ biến hiện nay là 7,74%/năm đối với kỳ hạn 12 tháng) để đảm bảo nguồn vốn hoạt động. Lãi suất cho vay đã giảm khá mạnh, lãi suất cho vay VNĐ nhóm Ngân hàng thương mại cổ phần phổ biến từ 10-10,5%/năm; nhóm Ngân hàng thương mại nhà nước từ 8,5-10%/năm.

Vốn huy động đến cuối quí I ước đạt 610 ngàn tỷ đồng, tăng 15,5% so cùng kỳ, tăng 4,2% so đầu năm (các chỉ số này ở cùng kỳ năm trước là 54,8% và 6,5%). Huy động bằng ngoại tệ chiếm 27,4% tổng vốn huy động, tăng 28,9% so cùng kỳ và tăng 5,2% so đầu năm; huy động VNĐ tăng 11,1%, trong đó tiền gửi tiết kiệm và kỳ phiếu đạt 317.200 tỷ đồng, tăng 23,2%, chiếm 52,1% tổng vốn huy động.

Tổng dư nợ tín dụng ước đạt 515 ngàn tỷ đồng, tăng 7,8% so cùng kỳ, tăng 2,4% so đầu năm (các chỉ số này ở cùng kỳ năm trước là 79,7% và 13,2%). Dư nợ tín dụng bằng ngoại tệ ước đạt 136.800 tỷ đồng, chiếm 26,6% tổng dư nợ, giảm 1,1% so cùng kỳ; dư nợ tín dụng bằng VND tăng 11,5% so cùng kỳ. Dư nợ tín dụng trung dài hạn chiếm 42,5% tổng dư nợ, tăng 13,2% so cùng kỳ; dư nợ tín dụng ngắn hạn tăng 4,1% so cùng kỳ.

Vay vốn hỗ trợ lãi suất: Đảo nợ, nên hay không?

Vũ Thành Tự Anh: Về chính sách hỗ trợ lãi suất 4% đã và đang được triển khai, đánh giá của ông thế nào?

Chính sách này đã được khá nhiều nước thực hiện, và nhiều nước đã thực hiện không thành công.

Vì nhiều lẽ, lẽ lớn nhất là không kiểm soát được các khoản vay, do một số động cơ không chính đáng từ người đi vay (moral hazzards).

Tại Việt Nam, chương trình hỗ trợ lãi suất bắt đầu từ đầu năm nay, số vốn cho vay trong 1 tháng qua lên đến 93 nghìn tỷ đồng, nhưng tốc độ tăng trưởng tín dụng thực tế chỉ là 0,5%.

Điều đó cho thấy chủ yếu các nguồn vốn đó là đảo nợ. Năm 2008, doanh nghiệp vay với lãi suất 21%/năm, năm nay vay với lãi suất 6%/năm, chênh lệch đến 15%, nên các doanh nghiệp đều có động cơ để đảo nợ.

Số lượng vốn cho vay ra ngoài rất nhiều, nhưng dư nợ tín dụng tăng thêm lại rất nhỏ, về cơ bản tiền chỉ nằm trong ngân hàng, và chỉ chuyển từ tài khoản này sang tài khoản khác, danh mục này sang danh mục khác.

Một vấn đề nữa là thời hạn và nhóm đối tượng được thụ hưởng. Mới đây nhất, có 2 nhóm đối tượng được bổ sung vào nhóm đối tượng được thụ hưởng chính sách này là các công ty khai khoáng và các công ty tài chính.

Nếu theo quy định, các công ty chỉ được vay để hỗ trợ cho vốn lưu động ngắn hạn, như vậy, với công ty tài chính, vốn lưu động của họ là gì?

Tôi cũng không hiểu tại sao lại hỗ trợ vốn cho các công ty khai khoáng.



Thứ Sáu, 6 tháng 3, 2009

Hit vao, tho ra

KINH QUÁN NIỆM HƠI THỞ

“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quả và lợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ); bốn lĩnh vực quán niệm nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ làm thành tựu bảy yếu tố giác ngộ (Thất Giác Chi); bảy yếu tố giác ngộ nếu được phát triển và thực tập liên tục sẽ đưa tới trí tuệ và giải thoát.

“Làm thế nào để phát triển và thực tập liên tục phép Quán Niệm Hơi Thở, để phép này mang lại những thành quả và lợi lạc lớn?

“Này đây, quý vị khất sĩ, người hành giả đi vào rừng hoặc tới một gốc cây, nơi vắng vẻ, ngồi xuống trong tư thể hoa sen, giữ thân cho thẳng, và đặt vững chánh niệm trước mặt mình. Thở vào, người ấy biết rằng mình thở vào; thở ra, người ấy biết là mình thở ra.

1 . Thở vào một hơi dài người ấy biết: Ta đang thở vào một hơi dài. Thở ra một hơi dài người ấy biết: ta đang thở ra một hơi dài.

2. Thở vào một hơi ngắn người ấy biết: ta đang thở vào một hơi ngắn. Thở ra một hơi ngắn, người ấy biết: ta đang thở ra một hơi ngắn.

3. Ta đang thở vào và có ý thức về toàn thân thể ta; ta đang thở ra và có ý thức về toàn thân thể ta, người ấy thực tập như thế.

4. Ta đang thở vào và làm cho toàn thân an tịnh; ta đang thở ra và làm cho toàn thân an tịnh, người ấy thực tập như thế.

5. Ta đang thở vào và cảm thấy mừng vui (13), ta đang thở ra và cảm thấy mừng vui, người ấy thực tập như thế.

6. Ta đang thở vào và cảm thấy an lạc (13) ; ta đang thở ra và cảm thấy an lạc, người ấy thực tập như thế.

7. Ta đang thở vào và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta; ta đang thở ra và có ý thức về những hoạt động tâm ý trong ta, người ấy thực tập như thế.

8. Ta đang thở vào và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta an tịnh; ta đang thở ra và làm cho những hoạt động tâm ý trong ta an tịnh, người ấy thực tập như thế.

9. Ta đang thở vào và có ý thức về tâm ý ta; ta đang thở ra và có ý thức về tâm ý ra, người ấy thực tập như thế,

10. Ta đang thở vào và làm cho tâm ý ta hoan lạc; ta đang thở ra và làm cho tâm ý ta hoan lạc, người ấy thực tập như thế.

11 Ta đang thở vào và thu nhiếp tâm ý ta vào định; ta đang thở ra và thu nhập tâm ý ta vào định, người ấy thực tập như thế.

12. Ta đang thở vào và cởi mở cho tâm ý ta được giải thoát tự do; ta đang thở ra và cởi mở cho tâm ý ta được giải thoát tự do, người ấy thực tập như thế.

13 . Ta đang thở vào và quán chiếu tính vô thường của vạn pháp; ta đang thở ra và quán chiếu tính vô thường của vạn pháp, người ấy thực tập như thế.

14. Ta đang thở vào và quán chiếu về tính tàn hoại của vạn pháp (14); ta đang thở ra và quán chiếu về tính tàn hoại của vạn pháp, người ấy thực tập như thế.

15. Ta đang thở vào và quán chiếu về giải thoát (l5); ta đang thở ra và quán chiếu về giải thoát, người ấy thực tập như thế.

16. Ta đang thở vào và quán chiếu về sự buông bỏ (l6); ta đang thở ra và quán chiếu về sự buông bỏ, người ấy thực tập như thế.

Phép Quán Niệm Hơi Thở, theo những chỉ dẫn trên, nếu được phát triển và thực tập liên tục sẽ đem đến những thành quả và lợi lạc lớn.

C Phát triển và thực tập liên tục như thế nào để phép quán niệm hơi thở có thể thành tựu được bốn lĩnh vực quán niệm (tứ niệm xứ)?

Khi hành giả thở vào hoặc thở ra một hơi dài hay một hơi ngắn mà có ý thức về hơi thở và về toàn thân mình, hoặc có ý thức là đang làm cho toàn thân mình, hoặc có ý thức là đang làm cho toàn thân mình an tịnh, thì khi ấy hành giả đang an trú trong phép quán thân trong thân, tinh tiến, tỉnh thức, biết rõ tình trạng, vượt khỏi mọi tham đắm cũng như mọi chán ghét đối với cuộc đời. Hơi thở vào và hơi thở ra có ý thức ở đây thuộc về lĩnh vực quán niệm thứ nhất là thân thể.

Khi người hành giả thở vào hoặc thở ra mà có ý thức về sự vui thích hoặc về sự an lạc, về những hoạt động của tâm ý, hoặc để làm cho những hoạt động của tâm ý an tịnh thì khi ấy hành giả đang an trú trong phép quán cảm thọ trong cảm thọ, tinh tiến, tỉnh thức, biết rõ tình trạng, vượt thoát mọi tham đắm cũng như mọi chán ghét đối với cuộc đời. Những cảm thọ được chứng nghiệm trong hơi thở có ý thức ấy thuộc về lĩnh vực quán niệm thứ hai là cảm thọ.

Khi hành giả thở vào hoặc thở ra mà có ý thức về tâm ý, làm cho tâm ý an tịnh, thu nhập tâm ý vào định hoặc cởi mở cho tâm ý được giải thoát tự do, thì khi ấy hành giả đang an trú trong phép quán niệm tâm ý trong tâm ý, tinh tiến, tỉnh thức, biết rõ tình trạng, vượt thoát mọi tham đắm cũng như mọi chán ghét đối với cuộc đời. Không có quán niệm về hơi thở thì sẽ không phát triển được chánh niệm và sự hiểu biết.

Khi hành giả thở vào hoặc thở ra mà quán chiếu về tính cách vô thường hoặc về tính cách phải tàn hoại của vạn pháp, về giải thoát và về sự buông bỏ, thì khi ấy hành giả đang an trú trong phép quán niệm đối tượng tâm ý trong đối tuợng tâm ý, tinh tiến, tỉnh thức, biết rõ tình trạng, vượt thoát mọi tham đắm cũng như mọi chán ghét đối với cuộc đời.

Phép Quán Niệm Hơi Thở nếu được phát triển và thực tập liên tục, sẽ đưa bốn lĩnh vực quán niệm đến chỗ thành tựu viên mãn.

D. Nhưng nếu được phát triển và thực tập liên tục, bốn lĩnh vực quán niệm sẽ đưa bảy yếu tố giác ngộ đến chỗ thành tựu viên mãn. Bằng cách nào?

Khi hành giả an trú trong phép quán thân trong thân, quán cảm thọ trong cảm thọ, quán tâm ý trong tâm ý, quán đối tượng tâm ý nơi đối tượng tâm ý, tinh tiến, tỉnh thức, biết rõ tình trạng, vượt thoát mọi tham đắm cũng như mọi chán ghét đối với cuộc đời, thì lúc ấy chánh niệm của hành giả được duy trì vững chãi và bền bĩ, và hành giả đạt được yếu tố giác ngộ (giác chi) thứ nhất là niệm. Yếu tố này sẽ tiến dần đến sự thành tựu viên mãn.

Khi hành giả an trú trong chánh niệm ớ quán chiếu và quyết trạch về các pháp, đối tượng của tâm ý, thì yếu tố giác ngộ thứ hai được sinh khởi và phát triển, đó là yếu tố trạch pháp. Yếu tố này sẽ tiến dần đến sự thành tựu viên mãn.

Khi hành giả an trú trong quán chiếu và quyết trạch về các pháp một cách bền bĩ, tinh cần, vững chãi thì yếu tố giác ngộ thứ ba được sinh khởi và phát triển, đó là yếu tố tinh tấn. Yếu tố này sẽ tiến dần đến sự thành tựu viên mãn.

Khi mà hành giả đã an trú vững chãi và bền bĩ trong sự hành trì tinh tiến thì yếu tố giải thoát thứ tư được sinh khởi và phát triển, đó là yếu tố hỷ lạc xuất thế (17) . Yếu tố này sẽ tiến dần đến sự thành tựu viên mãn.

Khi hành giả được an trú trong trạng thái hỷ lạc rồi thì hành giả cảm thấy thân và tâm của mình nhẹ nhàng và an tịnh, đó là yếu tố giải thoát thứ năm được sinh khởi và phát triển. Ðó là yếu tố khinh an. Yếu tố này sẽ tiến dần đến sự thành tựu viên mãn.

Khi thân và tâm mình đã nhẹ nhàng và thanh tịnh, hành giả có thể đi vào định một cách dễ dáng. Lúc đó yếu tố giải thoát thứ sáu được sinh khởi và phát triển. Ðó là yếu tố định. Yếu tố này sẽ tiến dần đến sự thành tựu viên mãn.

Khi đã thực sự an trú trong định, hành giả không còn duy trì sự phân biệt và so đo (18) nữa. Khi đó yếu tố giải thoát thứ bảy là buông thả được sinh khởi và phát triển. Ðó là yếu tố hành xả. Yếu tố này sẽ tiến dần đến sự thành tựu viên mãn.

Bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ) nếu được phát triển và thực tập liên tục sẽ đưa bảy yếu tố giác ngộ (thất giác chi) đến chỗ thành tựu viên mãn như thế.

E. Nhưng bảy yếu tố giác ngộ, nếu được phát triển và thực tập liên tục, làm thế nào để có thể đưa đến sự thành tựu viên mãn của trí tuệ và giải thoát?

Nếu hành giả tu tập theo bảy yếu tố giác ngộ, một mình tĩnh cư, chuyên quán chiếu về tính cách phải tàn hoại của vạn pháp, quán chiếu về sự tự do, thì sẽ đạt tới khả năng buông bỏ. Ðó là do tu tập bảy yếu tố giác ngộ mà thành tựu viên mãn được trí tuệ và giải thoát.

G. Ðó là những điều đức Thế Tôn nói. Ðại chúng ai nấy đều tỏ vẻ vui mừng được nghe người dạy.